Thành phố |
Đà Lạt |
Dân số: |
1.2 triệu (2006) |
Mật độ dân số: |
13 người /km2 |
Diện tích: |
9,770 km2 |
Thu nhập bình quân đầu người
hàng năm: |
€ 415 |
Nhiệt độ trung bình: |
14° - 21°C |
Lượng mưa trung bình: |
1,600 – 2,700 mm |
Công nghiệp: |
Công nghiệp chế biến thực phẩm
(rượu, các sản phẩm từ nông nghiệp) dệt len |
Nông nghiệp: |
Cà-phê, chè, điều, cây tằm,
hoa, rau và cây ăn trái |
Sử dụng đất: |
64 % Rừng
28 % Nông nghiệp
10 % Khác |
Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Lâm Đồng nằm
ở phía nam của vùng trung cao nguyên. Đà Lạt là thủ phủ của tỉnh, là một thành
phố lớn với 190,000 dân. Thành phố Đà Lạt nằm ở độ cao 1,500m so với mực nước
biển về phía đông bắc của tỉnh và cách thành phố Hồ Chí Minh 300 km.
Một số vùng cao nguyên
có đất đai màu mỡ tạo nên đặc trưng của Lâm Đồng: Cao nguyên Lang Biang ở phía
đông bắc (độ cao khoảng 1500m) và Cao nguyên Bảo Lộc và Di Linh (độ cao từ
700-900m). Phần đông nam của tỉnh dốc thoai thoải về phía đồng bằng phía bắc TP
Hồ Chí Minh.
Khí hậu của tỉnh
Lâm Đồng chủ yếu là nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ ôn hòa và độ ẩm cao
(80-90%). Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng từ 21 °C ở vùng đất thấp đến 14 °C ở vùng cao.. Theo tiến trình thời tiết
trong năm, khí hậu gió mùa tây nam (từ tháng 5 đến tận tháng 10) gây ra mưa
nhiều và khí hậu gió mùa đông bắc (từ tháng 11 đến tháng 4) đem lại thời tiết khô
ráo. 90% lượng mưa của cả năm được ghi lại là vào mùa mưa, với lượng mưa từ
1600 - 2700 mm/ năm.
Tỉnh Lâm Đồng có những
cấu trúc địa chất đa dạng, từ kỳ Jura giữa đến Đệ tứ. Cấu trúc địa chất của
khối núi trên cao nguyên Lang Bian và các dãy núi của cao nguyên Bảo Lộc – Di
Linh chứa nhiều đá gra-nít và khoáng bazan. Các chất khoáng sản hình thành từ kỳ thứ tư nằm ở thung lũng các dòng sông
và đồng bằng ngập nước của hệ thống sông Đồng Nai.
Loại đất phổ biến
ở Lâm Đồng là Ferralsols và Acrisols. Cả hai loại này bao phủ 88% diện tích đất
của tỉnh. Đất phù sa được bồi đắp hai bên bờ các dòng sông.
Dân
số
Năm 2006 có 1.2 triệu
người sinh sống tại Lâm Đồng, trong đó 62% sống ở vùng nông thôn, chỉ có 38%
sống ở thành phố.
Tỷ lệ sinh của
tỉnh Lâm Đồng vào năm 2006 đạt trung bình khoảng 19,9 o/oo,
cao hơn mức trung bình của cả nước (16,6 o/oo).
Tỉnh Lâm Đồng là
nơi sinh sống của nhiều dân tộc. Người Kinh chủ yếu là di cư từ miền bắc và
miền trung từ những năm 80 và 90, chiếm tỷ lệ dân số đông nhất khoảng 80%.
Người dân tộc bản địa là các nhóm người Koho (12%), Ma (2.5%), M Nong, Churu
(1.5%), Raglai và Stieng.
Kinh tế
Năm 2006 tổng sản
phẩm quốc nội của tỉnh Lâm Đồng đạt 415 triệu Euro. 48% BIP đạt được từ các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp và nuôi trồng cá, 31% từ khu vực dịch vụ và 21% từ công nghiệp và xây
dựng cơ bản.
Du lịch chiếm
tỷ trọng cao trong nền kinh tế của tỉnh và có tiềm năng tăng trưởng cao.
Đã có 1 triệu du khách đến Lâm Đồng vào năm 2006.
Các nông sản chính
ngoài cà-phê và chè là hạt điều, dâu tằm, hoa, rau và cây ăn trái. Tổng cộng có
khoảng 279,000 ha đất đang canh tác. Một phần rộng lớn của tỉnh được bao phủ
bởi nhiều khu rừng trong đó khoảng 61,732 ha là rừng trồng, 559,572 ha là rừng
tự nhiên chiếm khoảng 64% tổng diện tích của tỉnh.
Ngành
công nghiệp quan trọng nhất của tỉnh Lâm Đồng là chế biến thực phẩm (rượu, chế biến
các sản phẩm nông nghiệp). Vào năm 2006 ngành này đã cung cấp 12,000 việc làm
và đạt tổng doanh thu hơn 50 triệu Euro. Thêm vào đó ngành công nghiệp dệt cũng
đóng góp 9000 việc làm và có tổng doanh thu là 40 triệu Euro. Giá trị hàng hóa
xuất khẩu vào năm 2006 đạt 117 triệu Euro.
Cơ sở hạ tầng
Một số đường quốc lộ
nối tỉnh Lâm Đồng với các tỉnh lân cận, chủ yếu là đường nhựa, ngoại trừ những
con đường ở vùng nông thôn hẻo lánh.
Tổng Công ty Điện
lực Việt Nam cung cấp điện cho 87% dân số. Tuy nhiên, việc cấp điện ở một số huyện vẫn được
đảm bảo bằng máy phát điện chạy dầu diesel. Một số đập thủy điện chính nằm
trong địa phận của tỉnh.
Sân bay Liên
Khương của thành phố Đà Lạt có các chuyến bay hàng ngày đến Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh.
Thành phố Đà Lạt
cũng là một trung tâm giáo dục của cả nước, trường Đại học có khoảng 25 nghìn
sinh viên đang theo học.
Tài
nguyên nước và tình hình cung cấp nước
Tỉnh Lâm Đồng
có rất nhiều con sông cung cấp đủ nước quanh năm. Chất lượng của nước ở các
dòng sông rất tốt ở thượng nguồn nhưng ở hạ nguồn thì chất lượng giảm. Nguyên
nhân của vấn đề này là do thâm canh nông nghiệp đã thải nhiều phân bón và thuốc
trừ sâu và nước thải cống rãnh từ các khu định cư vào các hệ thống thoát nước.
Nước ngầm phần
lớn được khai thác từ lớp đất bột của các khu đất bằng và từ tầng đá cứng ngậm nước.
Chất lượng nước ngầm cũng có khả năng bị
ô nhiễm do các hoạt động nông nghiệp.
Ở nhiều vùng
nông thôn vẫn chưa có nước cấp công cộng. Tại đó, nước được lấy từ các dòng
sông bằng các máy bơm điện hoặc là các giếng đào bằng tay. Khoảng 80% dân số
nông thôn giải quyết nhu cầu về nước của họ bằng cách này.
Hiện tại nguồn
cung cấp chính cho hệ thống cấp nước là nguồn nước mặt (80%) trong khi nguồn nước
ngầm chiếm 20%.
Từ năm 2007,
trung tâm thành phố Đà Lạt được trang bị một hệ thống nước thải và một nhà máy
xử lý nước thải hiện đại. Tuy nhiên, phần lớn nước thải sinh hoạt trong tỉnh
không được xử lý hoặc chỉ được xử lý tối thiểu trong các bể tự hoại mà thôi.
|